Pages

Được tạo bởi Blogger.

2/11/13

Sự phát triển gần đây trong công nghệ Biofloc, một hệ thống an toàn sinh học cải thiện kinh tế, và phát triển bền vững

Bài đầy đủ PDF
Tóm tắt

Công nghệ biofloc kết hợp hệ thống nuôi tôm an toàn sinh học có thể làm cho hoạt động nuôi tôm bền vững và hiệu quả kinh tế hơn. Sản xuất biofloc đã được tối ưu, ao lót và ao chứa, mật độ thả nuôi cao là cần thiết. Quạt nước giữ cho hàm lượng oy hòa tan cao. Một yếu tố quan trọng là nước cần được lọc, xử lý và lưu giữ trước khi cho vào bể nuôi với tôm sạch bệnh đặc trưng (SPF). Khi ao được thả nuôi, nhân tố chính để kiểm soát là lượng biofloc trong ao.

Công nghệ Biofloc đã trở nên phổ biến trong nuôi tôm thẻ chân trắng trắng, Litopenaeus vannamei. Các biofloc cơ bảnđược phát triển bởi giáo sư Yoram Avnimelech tại Israel và bước đầu thực hiện nuôi tôm công nghiệp tại Belize bởi Robins McIntosh. Nó cũng đã được áp dụng thành công tại trang trại nuôi tôm ở Indonesia và Malaysia.

Sự kết hợp của hai công nghệ, thu hoạch một phần và biofloc, đã được nghiên cứu ở miền bắc Sumatra, Indonesia. Hệ thống cũng được kết hợp thành công vớihệ thống nuôi an toàn sinh học. Kết hợp sau này có thể làm cho hệ thống bền vững và hiệu quả kinh tế hơn.

Sự tiến bộ của trang trại

Nuôi tôm bền vững, an toàn sinh học là một trong những yếu tố quan trọng. Trang trại nuôi an toàn sinh học bắt đầu với việc thiết kế và xây dựng trang trại.

Trong thời gian cuối những năm 1980, hầu hết các trang trại nuôi tôm ở châu Á được thiết kế với dòng chảy thông qua các hệ thống nước. Trang trại nuôi tôm Dipasena ở Lampung, Indonesia, là trang trại có những ao thiết kế với các kênh cấp và xả ở đối diện hai bên. Hệ thống ổn định cho đến khi có sự bùng phát của vi khuẩn trong những năm 1990. Ao chứa nước đã được thêm vào để quản lý và kiểm soát những vấn đề vi khuẩn.

C.P. Indonesia đã thiết kế một trang trại nuôi tôm lớn với hệ thống tuần hoàn, ao chứa, ao lắng để xử lý vi khuẩn. Tuy nhiên, trong thời gian giữa năm 1990, các vấn đề về virut đã phát triển, đặc biệt virut đốm trắng. Một lần nữa, trang trại cần phải thiết kế lại để xử lý nước trước khi cấp vào ao nuôi.

Một thiết kế mô-đun gần đây được sử dụng bởi Blue Archipelago Berhad tại Malaysia bao gồm hai mô đun của bốn ao hồ chứa, khoảng 20% diện tích ao nuôi. Chỉ có một điểm khởi đầu cho nguồn nước ban đầu, trong đó nguồn nước ban đầu đi qua bốn ao chứa trước khi đến kênh nước của mô đun chính. Từ Kênh nước chính, nguồn nước đã được xử lý và được cấp vào ao nuôi.

Hệ thống Biofloc

Để nuôi tôm công nghiệp mật độ cao, bền vững và năng suất cao, ao lót bạc hoặc ao bê tông đã được sử dụng. Mật độ tôm thả nuôi cao khoảng 130-150 pl/m2 và tỷ lệ sục khí cao 28-32 hp/ha cũng rất cần thiết. Hệ thống quạt nước trong ao cũng giữ cho hàm lượng oxy trong ao cao và làm cho vật chất thải rắn tập trung ở giữa ao. Các vật chất thải có thể được siphon định kỳ khi cần thiết.

Bioflocs là một hỗn hợp của vi khuẩn, tảo và động vật nguyên sinh cùng với các vật chất hữu cơ mảnh vụn và vật chất vô. Các thiết bị sục khí cho các bioflocs lơ lửng trong nước ao đó là yêu cầu chính cho tiềm năng phát triển tối đa của vi khuẩn trong ao nuôi tôm. Các biofloc lơ lửng cũng dễ dàng làm thức ăn cho tôm. Thức ăn mãnh và mật đường được sử dụng để duy tỷ lệ C : N trên 15. Thêm vào đó một số loại hóa chất như dolomit và vôi, cao lanh cũng đượ sử dụng trong việc chuẩn bị nước ao và trong quá trình hoạt động. Cao lanh được sử dụng khoảng 50-100 kg/ha một lần hoặc 2 lần/tuần.

Vận hành và kiểm soát

Chỉ có nước đã xử lý mới được sử dụng. Nói chung, nước cấp vào phải cho qua lưới lọc 250μ để ngăn chặn ấu trùng động vật giáp xác (đặc biệt là cua) vào vào bể chứa và ao nuôi. Nước được xử lý bằng crustacides để loại trừ bất kỳ động vật giáp xác và trứng của nó còn lại trong ao. Trong thời gian này, nước sẽ được giữ ít nhất 74 giờ trong các bể chứa hoặc ao nuôi. Quá trình lưu giữ này sẽ hạn chế được này các virus trong nước.

Yếu tố quan trọng nhất trong quá trình nuôi là phải đảm bảo nước được lọc qua túi vải, xử lý hóa chất và quá trình lưu giữ được sử dụng một cách hiệu quả trước khi thả tôm vào ao. Chỉ nên thả nuôi tôm sạch bệnh đặc trưng (SPF).

Một khi ao được thả tôm , một yếu tố quan trọng để kiểm soát là thể tích biofloc. Sử dụng bể hình phiễu để đánh giá, thể tích biofloc cần phải được duy trì dưới 15 ml/L. Ít nhất hai mẫu cần phải được thực hiện đồng thời từ hai địa điểm dưới nước mặt. Nước màu xanh lá cây hoặc màu nâu là chấp nhận được, nhưng nước đen cho thấy điều kiện môi trường nước xấu.

Thức ăn mãnh và mật đường bổ sung nguồn carbon như cần thiết. Nói chung, thức ăn mãnh cung cấp từ 15 – 20 % tổng lượng thức ăn sử dụng trong suốt quá trình vận hành. Mật đường có thể bổ sung 2 – 3 lần/tuần khoảng 15 – 20 kg/ha/ao. Oxy hòa tan cần theo dõi thường xuyên có thể duy trì mức cao hơn 4 mg/L. Đặc biệt trong hệ thống bifloc, sục khí cần phải theo dõi để sữa chữa và thay thế khi cần thiết.

Hiệu suất nuôi

So sánh hiệu suất với hiệu suất nuôi dự kiến của hệ thống biofloc với hệ thống nuôi tự dưỡng truyền thống cho thấy trong Bảng 1. Tôm phát triển nhanh hơn và sản lượng cao trong hệ thống biofloc. Hệ số chuyển đổi thức ăn tốt hơn và chi phí thức ăn cũng thấp hơn hệ thống nuôi truyền thống.

Bảng 1. So sánh hệ thống sản xuất biofloc và autotrophic
10639802673_a2b6d0b43c_o.jpg 

Nước ít thay hơn với công nghệ biofloc, và hệ thống ao nuôi ổn định hơn trong hệ thống nuôi truyền thống tự dưỡng.

Các ứng dụng khác

Ngoài nuôi ca và nuôi tôm thâm canh, công nghệ cũng được ứng dụng trong thống nướ chảy siêu thâm canh để sản xuất 9 kg tôm/m3. Sử dụng hệ thống nước chảy phải có hệ thống ương, nuôi, bể vận hành tôm bố mẹ, cũng như lựa chọn dòng họ.

Hiện nay, các nghiên cứu của một số trường đại học lớn và các công ty tư nhân đang sử dụng biofloc như một nguồn protein đơn cho thức ăn thủy sản. Theo một số tác giả, protein thô của biofloc chứa khoảng 35.0 - 50.0%, và chất béo thô khoảng 0,6 - 12,0%. Biofloc có thể thiếu arginine, lysine và methionine. Hàm lượng tro của nó giữa 21 và 32%.

Quan điểm

Trong bất kỳ doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản, khi tiết kiệm từ việc sử dụng hiệu quả thức ăn, thời gian, năng lượng, hệ thống ổn định và bền vững thì có thể cải thiện được lợi nhuận. Công nghệ biofloc dường như có các đặc tính này.

Với các vấn đề virus và chi phí gia tăng năng, công nghệ biofloc với hệ thống an toàn sinh học có thể trả lời cho hiệu quả nhiều hơn, bền vững và lợi nhuận hơn trong nuôi trồng thủy sản.

Phó Văn Nghị, www.aquanetviet.org
Source: Taw N., 2012. Recent developments in biofloc technology biosecure systems improve economics, sustainability. Global Aquaculture advocate.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét