Pages

Được tạo bởi Blogger.

3/4/14

Vì sao cá ngừ Việt Nam không thể làm sushi?

 (thesaigontimes.vn)
Câu cá ngừ đại đương là nghề phổ biến của ngư dân các tỉnh Nam Trung bộ, từ Bình Định tới Bình Thuận. Và Nhật Bản là thị trường tiêu thụ rất nhiều cá ngừ đại dương, để chế biến các món ăn tươi như sashimi, sushi. Ấy vậy nhưng cho đến nay, cá ngừ Việt Nam vẫn chưa thâm nhập được thị trường Nhật. Vì sao?

Theo thông tin từ Tổng cục Thủy sản của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN –PTNT) mới đây, Việt Nam đã đưa 4 con cá ngừ đại dương sang Nhật chào bán ở dạng cá nguyên con để làm các món sashimi, sushi…nhưng có đến 3 con không đạt chất lượng, còn 1 con chỉ lấy được 50% lượng thịt.

Vì thế, thay vì bán với giá 30 đô la Mỹ/kg để làm các món hải sản tươi, số cá trên chỉ được mua làm đồ hộp với giá 3 đô la Mỹ/kg, giảm 9 lần so với dự tính. Đây là một dẫn chứng rõ ràng cho thấy, nếu có biện pháp cải thiện chất lượng cá, ngư dân và người kinh doanh sẽ tăng được thu nhập và lợi nhuận lên nhiều lần.

Ông Phạm Ngọc Tuấn, Phó cục trưởng Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản, Bộ NN –PTNT cho biết, hiện cả nước có khoảng 3.500 tàu câu cá ngừ, sử dụng khoảng 35.000 lao động là ngư dân. Năm 2013 ngư dân đánh bắt được gần 16.000 tấn cá ngừ vây vàng mắt to. Số cá này chỉ được dùng để đóng hộp, phơi khô, làm chả cá… chỉ có một số rất ít cá ngừ nguyên con đủ tiêu chuẩn chế biến các món ăn tươi sống xuất sang thị trường Nhật Bản, trong khi nhu cầu tiêu thụ cá ngừ tươi sống của thị trường này rất lớn.

Có nhiều nguyên nhân khiến sản phẩm cá ngừ đại dương của Việt Nam không đảm bảo chất lượng, không đáp ứng tiêu chuẩn của thị trường tiêu thụ, từ phía người kinh doanh và cũng như từ phía ngư dân. Theo Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi Thủy sản, các đại lý mua cá ngừ từ ngư dân hầu như không hiểu biết cơ bản về bảo quản cá sau khi bắt, thường chọn thời điểm mua cá vào gần giữa trưa, lại để cá trên nền đất… làm cho chất lượng cá giảm.

“Cũng phải nói thêm rằng, một trong những nguyên nhân khiến ngư dân chưa quan tâm đến bảo quản sản phẩm một phần là do các đại lý chỉ mua xô - mua đồng giá cho cả cá tươi lẫn cá ươn - mà không phân loại cá để mua với những mức giá khác nhau”, ông Tuấn nói.

Cũng như ngư dân đánh cá ven bờ, ngư dân đánh cá ngừ đại dương sử dụng chủ yếu tàu vỏ gỗ, hầm trữ cá không đảm bảo nhiệt độ, chủ yếu chỉ ướp cá bằng nước đá mà ngay cả đá lạnh cũng không đạt yêu cầu (vì có nguồn nước làm đá bị nhiễm phèn) làm chất lượng của thịt cá giảm.

Tính chung lại, số cá ngừ đáp ứng điều kiện để xuất khẩu nguyên con chỉ chiếm khoảng 5-6% số cá ngừ đánh bắt được, lãng phí một nguồn lợi không nhỏ.

Tiến sĩ Arata Izawa, chuyên gia về con cá ngừ của Công ty Yanmar, Nhật Bản giải thích thêm vì sao cá ngừ của Việt Nam không làm được món sushi hay các món ăn tươi sống khác là do khi câu được cá ngừ đại dương, ngư dân dùng chày gỗ để giết chết cá, cách làm này khiến cá quẫy mạnh, tăng quá trình trao đổi sinh hóa, dẫn tới chất lượng thịt cá ngừ giảm, sau đó, dù ngư dân có bảo quản tốt đến mức nào thì chất lượng cá vẫn giảm.

Còn ngư dân Nhật Bản khi câu được cá, việc đầu tiên là làm cho con cá ngừ “bình tĩnh” không vùng vẫy mạnh trước khi đưa lên tàu. Sau đó họ dùng dao thọc vào đầu để cá chết nhanh hoặc để cá ngừ còn sống vào hầm hạ nhiệt độ để giữ cá được tươi. Với cách làm đó, chất lượng cá ngừ của ngư dân Nhật Bản lúc nào cũng đảm bảo tiêu chuẩn để chế biến những món ăn tươi sống và dĩ nhiên giá bán cá cũng cao hơn nhiều lần so với giá cá chất lượng thấp bán cho các nhà máy đóng hộp.

Công ty Yanmar hiện là đối tác của Bộ NN-PTNT trong đề án nâng cao chuỗi giá trị sản xuất cho ngành cá ngừ Việt Nam.

>> Ngày 2-4, tại Phú Yên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN – PTNT) đã tổ chức Diễn đàn Tổ chức sản xuất cá ngừ theo chuỗi giá trị. Buổi đối thoại có sự tham gia của cơ quan quản lý nhà nước là Bộ NN –PTNT, các nhà khoa học của Trường đại học Nha Trang và ngư dân câu cá ngừ đại dương ở Phú Yên, Bình Định.. để trao đổi kinh nghiệm và phương pháp nâng cao được chất lượng cá ngừ đánh bắt để có thể xuất khẩu nguyên con sang Nhật Bản.

Ngọc Hùng

GROUPER CULTURE IN TAIWAN – Vietsub (Nghề nuôi cá bống mú ở Đài Loan – phụ đề Việt ngữ)

https://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=84gdHsEJew0

22/1/14

Những sáng tạo ấn tượng trong trang trại nuôi tôm


Trong suốt quá trình làm việc, tôi đã có điều kiện đến thăm nhiều trang trại nuôi tôm tại Indonesia, Malaysia và Thái Lan, tại những nơi đó tôi đã nhìn thấy những sáng tạo ấn tượng được phát triển bởi chính những người nông dân. Những sáng tạo này là kết quả của rất nhiều thử nghiệm cũng như những thất bại trong quá trình ứng dụng của họ - những người nông dân nuôi tôm – một đối tượng quan trọng của nghề nuôi mà đôi khi chúng ta quên vinh danh. Trong bài viết này, tôi muốn thừa nhận và cảm ơn những người nông dân đã khởi xướng và chia sẽ những sáng tạo khéo léo này.

TỰ ĐỘNG CHUYỂN MẠCH HỆ THỐNG QUẠT NƯỚC
 
Khoảnh khắc nguy hiểm nhất trong các trại nuôi tôm thường xảy ra vào ban đêm, khi mà mặt trời đã lặn và quá trình quang hợp không còn diễn ra trong ao nuôi. Giai đoạn này, tất các các dạng sinh vật sống trong ao (tảo, tôm, vi sinh vật …) đều sử dụng oxy cho quá trình hô hấp. Nếu như có sự cố mất điện và hệ thống quạt nước không hoạt động kịp thời thì việc thiếu hụt oxy ngay sau đó có thể làm cho tôm chết. Thêm vào đó, cần phải tốn nhiều điện năng hơn cho việc khởi động máy, điều này giống như việc bạn phải dùng số nhỏ để khởi động xe máy của bạn. Hãy thử tưởng tượng trang trại của bạn có 100 hệ thống quạt nước việc tái khởi động cùng lúc sẽ tốn điện năng gấp nhiều lần và có thể gây quá tải, cháy máy. Thông thường các trang trại sử dụng công lao động để chuyển đổi hệ thống quạt nước khi cúp điện từng dàn quạt một hoặc một nhóm các dàn quạt.
 
Tại một trang trại nhỏ tại Kudat – Sabah – Malaysia, một nông dân nuôi tôm đã có sáng tạo rất hay, đó là thiết bị tự động bật lên – tự khởi động (Auto – on device). Phát kiến sáng tạo này là một đồng hồ hẹn giờ (Timer Starter), mỗi đồng hồ hẹn giờ kiểm soát 5 – 6 hệ thống quạt nước . Khi có điện lại hoặc hệ thống điện dự phòng được khởi động, thiết bị tự khởi động sẽ khởi động 5 – 6 dàn quạt, mỗi dàn quạt sẽ khởi động với độ trễ khoảng 10 giây, do đó không có tình trạng gây quá tải, cháy máy. Điều này nghe có vẻ rất đơn giản nhưng phải mất gần 20 năm để ứng dụng kỹ thuật chuyển đổi tự động này trong trang trại nuôi tôm.
 
2014-01-40.png
Đồng hồ hẹn giờ khởi động (timer starter) trong hệ thống tự khởi động (auto - on device)

DỤNG CỤ THU MẪU NƯỚC
 
Thiết thị thu mẫu nước chuyên dùng trong khoa học phân tích chất lượng nước ao hồ quá đắt đối với các trang trại nuôi tôm nhỏ, trong khi đó việc thu mẫu nước ao để kiểm tra hàng ngày là rất quan trọng, do đó người nuôi đã sáng tạo ra dụng cụ thu mẫu nước độc đáo như hình bên dưới.
 
Mô tả dụng cụ: Một đầu ống nhỏ được nối với một bình thu mẫu nước, chiều dài ống tùy thuộc vào độ sâu mực nước muốn thu mẫu. Trên bình thu mẫu nước có một lỗ nhỏ khoảng 6 mm đường kính.Ống được quấn quanh một cây với độ dài tương tự ống để giữ cho ống thẳng và đảm báo đưa được chai lấy mẫu xuống độ sâu cần thiết một cách dễ dàng.

2014-01-41.png
 
Thao tác lấy mẫu: Dùng ngón cái bịt một đầu ống, sau đó đưa chai thu mẫu xuống độ sâu cần thiết. Khi buông ngón cái ra, nước sẽ tự động chảy vào bình. Dùng ngón cái bịt đầu ống lại khi nước đầy bình và đưa chai nước mẫu lên bờ, buông ngón tay cái lần nữa để lấy mẫu nước ra khỏi chai lấy mẫu và tiến hành phân tích mẫu nước đã lấy.
 
 2014-01-42.png

PHÂN PHỐI HÓA CHẤT HOẶC PROBIOTIC TRỰC TIẾP ĐẾN KHU VỰC TÍCH TỤ CHẤT BẨN
 
Khu vực có chất lượng nước kém nhất trong ao nuôi thường ở xung quanh nơi gom tụ chất bẩn và thường ở giữa ao. Để phân phối hóa chất hoặc probiotic trực tiếp vào khu vực này, một “thiết bị” được chế tạo bao gồm một bồn chứa trên bờ co dung tích 30 – 50 lit dùng để pha thuốc, hóa chất hoặc probiotic, bồn chứa này được nối với một ống nhựa có đường kính khoảng 2,5 cm và được điều chỉnh bằng một van. Khi thuốc, hóa chất được trộn đều trên bể, van sẽ được mở và hỗn hợp thuốc, hóa chất sẽ được phân phối trực tiếp đến khu vực này.

2014-01-43.png

DỤNG CỤ THU HOẠCH TỪNG PHẦN (THU TỈA) TRÊN BỜ
 
Loại lưới nâng lớn này được thiết kế lần đầu tiên tại trang trại Tuaran – Sabah – Malaysia vào năm 2007. Lưới thu hoạch được cố định bởi khung sắt mạ kẽm có kích thước 6 m x 3,5 m. Đường kính của ống sắt mạ kẽm là 3,75 cm. Đầu dưới của hệ thống này được gắn với quả cầu bê tông với kích thước bằng quả bóng, và hệ thống nâng hạ lưới được điều khiển bằng dây thừng. Khi thu hoạch, dây thừng được thả ra và hệ thống lưới được tự động đưa xuống bề mặt đáy ao gần như vuông góc với bờ ao. Thức ăn được cho vào lưới và sau 10 phút thì lưới được nâng lên. Khoảng 100 kg tôm được thu hoạch cho mỗi lần như thế.

2014-01-44.png

BỐ TRÍ QUẠT NƯỚC TRONG AO DÀI
 
Hình bên dưới là cách bố trí hệ thống quạt nước trong ao dài với diện tích 8.000 m2 với hai khu vực gom tụ chất bẩn. Một sáng tạo khác của người nuôi.
 
 2014-01-45.png

2014-01-46.png
 
HỆ THỐNG LOẠI BỎ CHẤT THẢI TRUNG TÂM

2014-01-47.png
 
Hệ thống này được áp dụng rất phổ biến ở Indonesia, đặc biệt ở Sumbawa. Chất thải được loại bỏ thông qua hệ thống ống có đường kính 20 - 25 cm và được cắt bỏ nhiều phần trên thành ống (xem hình). Ở các ao nuôi có hệ thống ống cấp thoát ở hai đầu thì không áp dụng hệ thống loại bỏ chất thải trung tâm này. Các ống thoát được nối với một hố ga có ống dẫn ra ngoài. Hệ thống này rất thuận tiện vì không phải dùng nhân công để lặn siphon định kỳ. 
 
Lược dịch: KS NGUYỄN THÀNH QUANG THUẬN – CÔNG TY VINHTHINHBIOSTADT
Tác giả: Poh Yong Thong – Tổng giám đốc - Nutrition and Technical Service in PT Gold Coin Indonesia. Ông có 28 năm kinh nghiệm trong nuôi trồng và quản lý thủy sản. 
Nguồn: Innovative ideas in shrimp farming - AQUA Culture Asia Pacific Magazine – Tháng 1 – 2/2014
http://www.vinhthinhbiostadt.com/vi/thong-tin-ky-thuat/nhung-sang-tao-an-tuong-trong-trang-trai-nuoi...

14/11/13

Ảnh hưởng của mật độ lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của tôm chân trắng SPF nuôi thương phẩm trong bể composit trong nhà (Litopenaeus vannamei)

NHẤP CHUỘT VÀO TIÊU ĐỀ BÀI VIẾT ĐỂ TẢI BÀI ĐẦY ĐỦ (PDF) VỀ MÁY TÍNH
Tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) là đối tượng nuôi quan trọng trên thế giới với sản lượng chiếm khoảng 90% sản lượng tôm nuôi (Wurmann và cs., 2004). Ở Việt Nam, tôm chân trắng mới được di nhập từ năm 2002 nhưng đã nhanh chóng trở thành đối tượng nuôi chính do có ưu điểm vượt trội hơn so với tôm sú bản địa về tốc độ sinh trưởng nhanh và thời gian nuôi ngắn (Vũ Văn In và cs., 2012). Tuy nhiên, sau những thành công ban đầu, dịch bệnh đã bắt đầu xuất hiện và gây thiệt hại không nhỏ cho người nuôi (Vũ Văn In và cs., 2012). Một trong những nguyên nhân chính là do tôm giống kém chất lượng và có thể bị nhiễm mầm bệnh trước khi thả nuôi (Tổng cục thủy sản, 2012). Do đó, muốn phát triển nghề nuôi tôm theo hướng bền vững phải tạo ra được nguồn tôm giống có chất lượng tốt và sạch bệnh để cung cấp cho người nuôi. Tôm sạch bệnh không những có tốc độ sinh trưởng cao hơn mà còn có hệ số thức ăn thấp hơn nhiều so với tôm giống thông thường (Wyban, 2009).

Nuôi tăng trưởng từ tôm giống lên tôm thương phẩm là một giai đoạn quan trọng trong quy trình sản xuất giống tôm chân trắng SPF. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng và tỷ lệ sống của tôm trong giai đoạn nuôi tăng trưởng như môi trường (Scarpa và Vaughan, 1998; McGraw và cs., 2002), thức ăn (Daranee và Davis, 2011; Markey, 2007) và mật độ nuôi (Ponce-Palafox và cs., 2010; Marcelo và cs., 2008). Khi nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ nuôi lên tốc độ sinh trưởng và năng suất của tôm, Mena-Herrera và cs. (2006) cho rằng tôm nuôi ở mật độ cao cho sản lượng cao hơn tôm nuôi ở mật độ thấp nhưng tỷ lệ sống và cỡ tôm thu hoạch lại nhỏ hơn. Nhiều công trình nghiên cứu nuôi tôm chân trắng trong ao ngoài trời đã đề cập tới các mật độ nuôi khác nhau như: 130-150 PL10/m2 (Nyan Taw, 2010); 50-70 PL15/m2 (Mena-Herrera và cs., 2006); 75 PL15/m2 (Onanong và cs., 2006); 50-60 PL15/m2  (Thông tin Khoa học thủy sản số 4, 2002); 35 PL30/m2 (Daranee và Davis, 2011); 90-180 PL8/m2 trong điều kiện nước ngọt (Marcelo và cs., 2008); 50 - 61 PL15/m2 (Balakrishnan và cs., 2011); 17 - 45 PL15/m2 (Sookying và cs., 2011); 150 PL15/m2(FAO, 2004) và 10 - 40 PL15/m2 trong bể composit (Sandifer và cs., 2007). Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu về ảnh hưởng của mật độ nuôi đến tốc độ sinh trưởng và tỷ lệ sống của tôm giai đoạn từ PL15 lên cỡ thương phẩm trong điều kiện đảm bảo an toàn sinh học. Do vậy, việc nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ đến tốc độ sinh trưởng và tỷ lệ sống của tôm giai đoạn từ PL15 lên cỡ thương phẩm trong điều kiện đảm bảo an toàn sinh học là rất cần thiết để tìm ra mật độ nuôi thích hợp, nhằm góp phần hoàn thiện quy trình sản xuất giống tôm chân trắng SPF. Đây cũng là một khâu quan trọng trong toàn bộ quy trình sản xuất tôm chân trắng bố mẹ SPF.

Thí nghiệm được bố trí ở ba mật độ khác nhau: 40, 60 và 80 PL15/m2 trong bể composit 4m2 trong nhà đối với tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) sạch bệnh (SPF) giai đoạn nuôi thương phẩm trong thời gian 75 ngày. Nhiệt độ dao động từ 28 - 31ºC, độ mặn từ 20-24‰, nuôi trong điều kiện đảm bảo an toàn sinh học. Thí nghiệm được lặp lại 3 lần, sử dụng thức ăn CP có hàm lượng đạm 38%, cho ăn ngày 4 lần, khẩu phần ăn hàng ngày 10-15% khối lượng thân tùy theo khả năng tiêu thụ thức ăn thực tế của tôm, thay nước định kỳ 50%/tuần. Kết quả tăng trưởng về khối lượng ở mật độ 40 con/m2 đạt cao nhất (1,54 g/tuần), tiếp đến là mật độ 60 con/m2 (1,47 g/tuần) và thấp nhất ở mật độ 80 con/m2 (1,16 g/tuần). Tương tự như trên, tỷ lệ sống cao nhất ở lô 40 con/m2 (79,7 ± 2,6%) và thấp nhất ở lô 80 con/m2 (70,3 ± 3,3%; P<0,05) nhưng không có sự sai khác đáng kể giữa hai mật độ 40 con/m2 (79,7 ± 2,6%) và 60 con/m2 (78,7 ± 2,9%; P>0,05). Hệ số phân đàn của tôm nuôi ở mật độ 40 con/m2 (7,27 ± 1,52%) và 60 con/m2 (8,22 ± 2,5%) thấp hơn đáng kể so với lô mật độ 80 con/m2 (12,9 ± 2,7%; P<0,05). Tuy nhiên, không có sự khác nhau đáng kể về hệ số thức ăn (FCR) ở 3 mật độ thí nghiệm (P>0,05). Các mẫu tôm phân tích đều âm tính với mầm bệnh đốm trắng (WSSV), bệnh đầu vàng (YHV), Taura (TSV), bệnh còi (MBV), bệnh hoại tử cơ quan tạo máu và tế bào biểu mô (IHHNV).

Effect of Stocking Density on Growth Rate and Survival of White Leg Shrimp, Litopenaeus Vannamei, Raised on Indoor Composite Tanks 

The effect of stocking density of white leg shrimp SPF (Litopenaeus vannamei) was carried out at different density of 40, 60 and 80 PL15/m2 for 75 days. Each treatment was replicated three times in 4m2 indoor composite tank system and feeding ratio of 10-15% body weight with CP pellets containing 38% crude protein and four times a day. During the experiment, water temperature varied between 28 and 31ºC, whereas salinity ranged from 20-24‰ in biosecurity condition. Water in the culture tanks was renewed 50% weekly. The highest growth rate in weight was found in treatment of 40 heads/m2 (1.54 g/week), followed by 60 heads/m2 (1.47 g/week) but the rate for 30 heads/m2 (1.16 g/week) was lowest. Similarly, the survival rate of shrimp stocking at 40 heads/m2 ranked highest (79.7 ± 2.6%), followed by 60 heads/m2 (78.7 ± 2.9%) and the lowest rate for the 80 heads/m2 (70.3 ± 3.3%; P<0.05). Nevertheless, there was no significant difference in the survival rate between shrimp raised at 40 heads/m2 and 60 heads/m2 (P>0.05). Size variation (CV) for 40 heads/m2 (7.27 ± 1.52%) and 60 heads/m2 (8.22 ± 2.5%) were considerably lower than that for 80 heads/m2 (12.9 ±2.7%; P<0.05). However, there was no considerable disparity in feed conversion rate among the three treatments (P>0.05). All shrimp sample tissues were found negative for WSSV, YHV, TSV, MBV and IHHNV.

Nguồn tin: Nguyễn Phương Toàn, Vũ Văn Sáng, Nguyễn Viết Vương, Nguyễn Quang Tuất, Đặng Thị Dịu, Đoàn Thị Nhinh, Trần Thế Mưu, Vũ Văn In. Tạp chí Khoa học và Phát triển 2013. Tập 11, số 2: 223-229

5/11/13

Phương pháp tiếp cận thực tế: Làm thế nào để ngăn chặn hội chứng tôm chết sớm (EMS) trong trại nuôi tôm


A. Phương pháp tiếp cận thực tế: Làm thế nào để ngăn chặn hội chứng tôm chết sớm (EMS) trong trại nuôi tôm
Một căn bệnh tôm mới nổi lên được biết đến như là hội chứng tôm chết sớm (EMS) hay hội chứng hoại tử tuyến gan tụy cấp (AHPNS) đã được báo cáo là nguyên nhân mất mát đáng kể cho các trại tôm ở Trung Quốc (2009), Việt Nam (2010) và Malaysia (2011). Gần đây tại Thái Lan (2012), hội chứng đó đã được báo cáo có ảnh hưởng đến trại tôm phía Đông và các tỉnh thành phía Nam vịnh Thái Lan. Căn bệnh cũng ảnh hưởng đến cả hai loài tôm sú (Peanaeus monodo) và tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương (vannamei) và được định rõ đặc điểm bởi tỷ lệ chết hàng loạt (một vài trường hơp lên tới tỷ lệ 100%) trong suốt quá trình 20-30 ngày đầu tiên nuôi trồng (giai đoạn thả giống ấu trùng ra ao nuôi thương phẩm) liên tục ảnh hưởng đến tôm cho thấy tuyến gan tụy không bình thường, điều đó làm tôm teo lại, màu nhạt, vỏ mềm và cơ trắng dẫn đến việc tôm hấp hối chìm xuống đáy ao.
Các loài vi khuẩn khác nhau, đã được tách biệt tôm, như thể thực khuẩn và ký sinh trùng sống theo nhóm cũng được tìm thấy. Tuy nhiên, cho đến nay vài nhà khoa học vẫn chưa thể xác định nguyên nhân chính xác hội chứng EMS bởi vì tiên đề Koch không thể trình bày rõ. Khi mà vi sinh vật được tìm thấy trong cơ thể tôm bệnh được tách biệt, nuôi cấy và sử dụng để chủng ngừa tôm khỏe mạnh từ ao hồ được đặt chung một bể với tôm bệnh EMS trong phòng thí nghiệm, tôm khỏe mạnh không còn bị hội chứng EMS. Đó không phải là một căn bệnh lây nhiễm nghiêm trọng như hội chứng vi-rút tôm chân trắng hay vi-rút tôm đầu vàng.
Hầu hết tôm chết trong vòng 30 ngày giai đoạn thả ấu trùng, điều đó giống như là một nguyên nhân chính gây EMS là hậu ấu trùng không khỏe. Một lượng lớn vi khuẩn Vibrio được tìm thấy trong tuyến gan tụy của tôm đang chết dần, thông thường EMS xuất hiện trong ao không được chuẩn bị tốt vào thời điểm có mưa lớn và liên tục. Một nghiên cứu mở rộng ở những ao tôm mắc EMS và những ao gần khu vực không có EMS, thực hiện từ cuối năm 2011 đến cuối năm 2012, dẫn đến một số thông tin có thể giúp người nuôi tôm ngăn chặn EMS.
1. Lựa chọn tôm giống khỏe mạnh
Người nuôi tôm nên thả tôm giống ít nhất là là loại Post 10 (PL 10) nếu đang sử dụng nước mặn bình thường trong ao, nhưng nếu nước có độ mặn dưới 15 ppt, nên thả tôm giống lớn hơn PL 10. Tôm giống lúc này đã hình thành gan tụy hoàn toàn. Tôm phải có kích thước lớn, đậm màu, và có trọng lượng lớn khi quan sát dưới kính hiển vi với giọt lipid. Tỉ lệ cơ thịt từ ruột đến đốt bụng thứ 6 nên lớn hơn 4:1. Chọn nguồn gốc tôm giống ở các trại ương giống với mật độ bình thường khoảng 100.000 – 150.000 ấu trùng nauplius/m3, không quá dày, và giai đoạn ương giống không dùng thuốc kháng sinh.
Khi biết được nhiệt độ nước trong suốt quá trình ương nuôi tôm giống sẽ có lợi hơn. Khi nhiệt độ thấp tôm giống có thể ăn ít hơn, yếu hơn và phát triển chậm. Nếu có thể đánh giá chất lượng của tôm giống, phương pháp này còn được dùng để đánh giá tôm sú giống, tính cả tổng lượng lipid và vi khuẩn Vibrio trong gan tụy.
2. Chuẩn bị ao và nguồn nước
Phải khử trùng nguồn nước ở những nơi đã có sự bùng phát của EMS hoặc virus gây hội chứng đốm trắng. Điều này có thể được thực hiện bằng cách thêm Chlorine (calcium hypochlorite) ở mức nồng độ được khuyến cáo hoặc sử dụng hóa chất khử trùng khác. Không được sử dụng thuốc trừ sâu như Trichlorfon hoặc cypermenthrin (một pyrethroid tổng hợp) để tiêu diệt các sinh vật mang vi-rút trên tôm hoặc cua tự nhiên – vì thuốc trừ sâu không thể loại bỏ hết nguồn nước đã nhiễm bệnh – nguyên nhân tạo nên hệ vi sinh vật gây bệnh hoặc ký sinh trùng. Đối với nguồn nước có nhiều chất lắng đọng, nên để lắng nước trong một thời gian trước khi được bơm vào ao tôm để xử lý.
3. Hạn chế những điều kiện gây bệnh cho Tôm

3.1. Độ pH của nước không nên quá thấp trong tháng đầu tiên
Không thêm quá nhiều chế phẩm sinh học hoặc vi sinh vật có lợi để phân hủy các chất hữu cơ ở giai đoạn đầu của thời gian nuôi hoặc giai đoạn chuẩn bị nguồn nước để giữ sạch nước trong giai đoạn này. Cẩn thận khi thêm vi sinh vật có lợi để làm giảm độ pH của nước để ngăn ngừa vi khuẩn Vibrio phát triển hoặc làm giảm độc tính của amoniac. Độ pH của nước thấp hơn 7,5 vào buổi sáng có thể làm nguy hại cho tôm. Tôm nuôi trong ao bị ảnh hưởng bởi lượng mưa lớn. Nếu có mưa lớn trong nhiều ngày, độ pH của nước sẽ giảm. Độ kiềm của nước cũng sẽ giảm xuống, vì thực tế nước mưa không có độ kiềm và độ pH của nước mưa là 6,8-6,9. Lượng mưa nhiều hơn theo chu kỳ là nguyên nhân làm cho độ pH và độ kiềm của nước giảm. Ở một số nơi, như Rayong, Chantaburi, và các tỉnh Chachoengsao (phía Đông Thái Lan), vào những thời điểm khi nhiều tôm chết do EMS, trời mưa gần như hàng ngày. Phần lớn tôm chết có thân trở nên mềm và thịt chuyển sang màu trắng. Cùng một vấn đề với EMS trường hợp tôm chết sau khi mưa lớn đã được báo cáo trong tỉnh thành phía Nam Thái Lan trong mùa mưa từ tháng 10 đến tháng 12 năm 2012. Khi tôm giống được thả vào ao nuôi, độ pH nước nên vào khoảng 8,8 ± 0,2, vì đây là độ pH của nước bình thường tại các trại giống. Tôm giống sẽ dễ dàng thích nghi hơn. Độ kiềm nước không nên dưới 100mg /l. Trong tháng đầu tiên, nên thêm vôi vào nước để điều chỉnh pH mỗi khi trời mưa nhiều.
3.2.  Điều chỉnh chế độ ăn
Theo nguyên tắc cho tôm giống ăn tự do tăng trưởng nhanh chóng để tôm đạt kích thước đồng đều khá rủi ro. Điều này không giúp ngăn ngừa bệnh EMS. Người nuôi tôm không muốn nhìn thấy tôm của họ phát triển rất nhanh chóng, họ muốn thấy tôm tăng trưởng với tốc độ bình thường, vẫn khỏe mạnh, và sau đó có thể thu hoạch khi tôm đạt đến kích thước mong muốn. Nếu tổng lượng thức ăn được kiểm soát, thì đáy ao nuôi tôm sẽ được duy trì sạch sẽ. Sẽ không có sự gia tăng vi khuẩn Vibrio gây bệnh cho tôm. Nếu không có thức ăn dư thừa, chất lượng nước vẫn được duy trì tốt sau đó. Tôm phát triển với tốc độ vừa phải sẽ không lột xác quá thường xuyên. Số lượng tôm chết vì thân mềm sau khi lột xác sẽ giảm.

3.3.  Điều chỉnh chất lượng nước cẩn thận
Điều quan trọng là đảm bảo rằng có đủ thiết bị sục khí để cung cấp cho tôm trong mỗi ao, vì nồng độ ôxy hòa tan (DO) trong nước là yếu tố quan trọng nhất để nuôi tôm. Nếu DO được giữ trên 4 mg / lít hoặc 4ppm trong suốt thời gian nuôi thì tôm sẽ phát triển tốt và khỏe mạnh. Sẽ có ít nguy cơ mắc bệnh. Không cần thiết để đề cập có bao nhiêu thiết bị sục khí là cần thiết cho mỗi kích thước ao, hoặc bao nhiêu mã lực cho diện tích mặt nước. Người nuôi tôm đã hiểu được điều này. Nguyên tắc chính là khi các thiết bị sục khí được bật lên cùng một lúc thì sẽ có đủ nước để đẩy chất lắng đọng cặn ra giữa ao.
B. Phải làm gì nếu tôm chết khi có dấu hiệu của EMS?
Có nhiều đặc điểm đã được chia sẻ trên hầu hết các trang trại quan sát thấy rằng tôm không bị thiệt hại do EMS ngay cả khi các trang trại gần đó đã bị. Qua đó có thể hình thành những hướng dẫn chung để ngăn ngừa EMS
1. Sử dụng thuốc khử trùng nhiều lần
Mỗi trang trại có phương pháp khác nhau, sử dụng các loại thuốc khử trùng khác nhau với liều lượng khác nhau. Thuốc khử trùng trong ao nuôi tôm phải được cho phép sử dụng của Sở Thủy sản. Một số trang trại có thể không sử dụng chất khử trùng hóa học, thay vào đó là ngưng cho tôm ăn trong một khoảng thời gian, khoảng 10 ngày một lần, hoặc giảm lượng thức ăn nếu thấy màu nước tối lại. Họ cũng có thể bổ sung các vi sinh vật có lợi để xử lý đáy ao nếu oxy đủ.
2. Bổ sung khoáng chất hoặc muối biển
Bổ sung khoáng chất và muối biển trước khi tôm đạt tới giai đoạn lột xác hoặc trong khi tôm đang lột xác có thể đảm bảo rằng có đủ khoáng chất trong nước để tôm phát triển vỏ mới.

3. Dùng vôi để điều chỉnh độ pH của nước
Tùy thuộc vào thói quen sử dụng của từng trại nuôi tôm có thể sử dụng bất kỳ loại vôi hoặc canxi hydroxit nào. Lý do để sử dụng vôi là để duy trì độ pH và độ kiềm của nước sau khi mưa lớn. Điều này sẽ giúp bảo vệ chống lại những tác nhân gây hại từ khí H2S hình thành ở giữa ao. H2S có thể trở nên rất độc khi độ pH giảm xuống mức thấp, đặc biệt là sau khi mưa lớn
C. Nếu tôm bắt đầu chết khoảng một tháng sau khi thả vào ao (có thể là trước hoặc sau một tháng), thân (thịt) tôm có màu đục là không rõ ràng và trắng, gan tụy nhạt màu và kích thước nhỏ hơn so với tôm bình thường nên làm theo các bước sau:
1. Ngưng cho ăn
Không nên lo lắng rằng nếu tôm khỏe mạnh ăn tôm bệnh hoặc chết sẽ bị lây bệnh. Lý do để ngưng cho ăn là để cho tôm không lột xác. Cơ chế tự nhiên sẽ làm cho chúng hoãn lột xác khi thức ăn không nhiều. Nếu tôm không lột xác thì số lượng lớn tôm sẽ không chết. Sau khi ngưng cho ăn, số lượng tôm mới chết sẽ chậm lại và sẽ dừng lại sau 3-5 ngày.
2. Thêm vôi để tăng độ pH
Ngưng cho ăn có thể là chưa đủ, nên bón thêm vôi vào nước để độ pH lên đến 7,9-8,0 vào buổi sáng sớm trước khi mặt trời mọc. Điều này cũng sẽ làm chậm quá trình lột xác và giảm tỉ lệ tôm chết. Độ mặn trong ao thấp hoặc mật độ tôm cao, cần bổ sung muối biển hoặc khoáng chất để giúp tôm phục hồi và khỏe mạnh nhanh hơn.
Thông tin trên là những gì được biết về cách phòng tránh EMS trong việc nuôi trồng tôm thẻ chân trắng ở khu vực Thái Bình Dương. Người nuôi tôm có thể xem xét các thông tin và quyết định thực hiện thực tế trên trang trại của họ, và họ có thể thử nghiệm với các phương pháp khác. Sau đó, họ có thể theo dõi để xác định xem phương pháp nào là hiệu quả nhất để phòng bệnh EMS đối với từng trại giống cụ thể của mình.
Phòng kỹ thuật – Công ty TNHH CNSH A.T.C
Nguồn lược dịch từ tạp chí E-Magazine: http://www.asianaquaculturenetwork.com

Diễn biến của hội chứng hoại tử gan tụy trong ao nuôi tôm thâm canh ở huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng

TẢI BÀI ĐẦY ĐỦ (PDF) VỀ MÁY TÍNH.
Hội chứng hoại tử gan tụy diễn biến khá phức tạp và gây thiệt hại lớn cho người nuôi tôm từ giữa năm 2010 đến nay. Tính đến đầu tháng 06/2011, diện tích nuôi tôm bị thiệt hại ở ĐBSCL là 52.470 ha, chiếm hơn 98% diện tích tổng thiệt hại của cả nước. Trong đó, Sóc Trăng bị thiệt hại nặng nhất với trên 19.800 ha tôm chết trên tổng diện tích đã thả gần 25.500 ha (chiếm 76% diện tích thả nuôi). Tôm chết tập trung ở giai đoạn 20-30 ngày tuổi, đây là cỡ tôm khi phát hiện bệnh người nuôi thường xử lý và xả bỏ. Dấu hiệu bệnh lý tập trung chủ yếu ở gan tụy, gan sưng nhũn nhạt màu hoặc teo dai.

Theo nghiên cứu có rất nhiều bệnh có thể làm ảnh hưởng đến gan tụy tôm. Bệnh hoại tử gan tụy Necrotizing Hepatopancreatitis (NHP) là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính trên họ tôm he. Tác nhân gây bệnh là vi khuẩn thuộc lớp alphaproteobacteria, ký sinh nội bào bắt buộc thuộc nhóm Rickettsia. Dấu hiệu trên tôm bệnh gồm giảm ăn, ruột không có thức ăn, mềm vỏ, thịt mềm nhũn, gan tụy bị teo rất rõ (Lightner, 1996). Bệnh Hemocytic Enteritis (HE) có liên quan đến hiện tượng nở hoa của tảo Schrizothrix calcicola có trong cả nước ngọt và nước mặn có khả năng tiết ra nội độc tố làm hoại tử tế bào biểu bì của thành ruột dẫn đến viêm nặng và gan tụy bị hoại tử (Lightner và ctv., 1982). Nguyên nhân tôm chết có thể do không thể hấp thụ chất dinh dưỡng hoặc có thể là do nhóm vi khuẩn cơ hội Vibrio tấn công, thường là V. alginolyticus. Bệnh do vi bào tử trùng Microsporidia là ký sinh trùng nội bào bắt buộc lây nhiễm trên nhiều ký chủ khác nhau. Có rất nhiều Microsporidia được cho là lây nhiễm trên ký chủ là giáp xác bao gồm Agmasoma, Amecon, Nosema, Pleistophora, Tuzetia, Thelohania, Flabelliforma, Glugoides, Vavraia, Ordospora, Nadelspora và Enterospora (Refardt và ctv., 2002; Moodie và ctv., 2003; Amogan và ctv., 2006). Bệnh nhiễm khuẩn do một số loài thường gặp như V. harveyi, V. parahaemolyticus và V. vulnificus….Trường hợp sức khỏe tôm không tốt, sức đề kháng bệnh giảm, vi khuẩn sẽ xâm nhập vào cơ thể tôm để gây bệnh.

10699071295_6cdece0107_o.png

Ngoài ra độc tố cũng làm ảnh hưởng đến gan tụy và gây chết hàng loạt tôm. Theo nghiên cứu ở Thailand khi nuôi tôm sú giống trong nước có chứa Cypermethrin với hàm lượng 0.005 μg/L thì sau 24h tôm chết 100%. Ở tôm sú (1-3g) với nồng độ 1ng/L Cypermethrin trong ao nuôi cũng có thể làm tôm chết hàng loạt khoảng 50% trong vòng 10 ngày thí nghiệm. Tôm sú giống sau 24h nuôi trong nước có chứa 15μg/L methy-parathion thì tỷ lệ chết lên đến 100% (Flegel và ctv., 1992). Khi quan sát lát cắt mô tôm nhiễm gây nhiễm với hai thuốc trừ sâu trên, cho thấy biến đổi bất thường, bao gồm hạch thần kinh bụng bị không bào hóa, hoại tử gan tụy. Trong nghiên cứu này, diễn biến của hội chứng hoại tử gan tụy được làm rõ thông qua việc khảo sát thu mẫu tôm trên nhiều trang trại với quy mô lớn nhỏ khác nhau.

Hội chứng hoại tử gan tụy gây chết hàng loạt tôm nuôi ở Đồng bằng sông Cửu Long. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định diễn biến của hội chứng hoại tử gan tụy trên tôm nuôi. 51 mẫu tôm thu theo định kỳ 10 ngày/lần và 35 mẫu thu lúc dịch bệnh được kiểm tra bằng phương pháp mô bệnh học. Dấu hiệu hoại tử gan tụy xuất hiện sớm nhất ở ngày thứ 17 và muộn nhất vào ngày thứ 77 sau khi thả tôm vào ao nuôi. Tần suất xuất hiện hoại tử cao nhất được ghi nhận từ 20-45 ngày. Tôm chết tập trung ở giai đoạn 19-31 ngày tuổi. Tất cả mẫu thu từ ao có tôm chết đều ghi nhận dấu hiệu hoại tử gan tụy khá cao và phải thu hoạch sớm ngay sau khi phát hiện hoại tử 2-3 ngày.

Điều đáng ghi nhận là tỷ lệ hoại tử biến động lớn giữa các ao (từ 9-90%). Điều này cho thấy mức độ nguy hiểm của hội chứng gan tụy mặc dù khi chỉ phát hiện tỷ lệ hoại tử thấp. Tất cả các ao ghi nhận có dấu hiệu hoại tử đều phải thu hoạch sớm. Thời gian thu hoạch sớm nhất là 19 ngày, trung bình từ 2-2,5 tháng. Mẫu tôm thu từ các ao không có biểu hiện bệnh lý lúc thu mẫu cũng có tỷ lệ hoại tử 0-16%. Hiện tượng thu hoạch sớm cũng xảy ra trên nhóm ao này. Từ kết quả nghiên cứu có thể kết luận rằng khả năng hồi phục của tôm nuôi khi bị hoại tử gan tụy là không có. Ao nuôi đều phải thu hoạch sớm khi phát hiện dấu hiệu hoại tử.

Development of hepatopancreatitic necrosis syndorme in intensive shrimp ponds in Tran De district, Soc Trang province  

Hepatopancreatitic necrosis syndrome (HNS) caused mass mortality in shrimp cultured in Mekong Delta. This study was conducted to determine the evolution of HNS in shrimp cultured in Mekong Delta. Histopathological method was used to analyse 51 shrimp samples collected periodically every 10 days and 36 samples collected at disease outbreak. The earliest and latest signs of necrosis appeared on day 17 and 77 after stocking respectively. The highest frequency of necrosis appearance was recorded from 20 to 45 days after stocking. Mortality was concentrated in the period of 19-31 days of age. All shrimp samples collected at outbreak showed high prevalence of necrosis and lead to early harvesting after 2-3 days of necrosis detecting. It is interesting that the high variation of necrosis rate have been recorded between ponds (9-90%). This result shows the severity of HNS although only low necrosis rate was detected. The early harvesting has been applied in all shrimp ponds with signs of necrosis. The average time of harvest is from 60 to 75 days but some ponds have to harvest as early as 19 days. Shrimp samples collected from ponds showing no clinical signs also showed the necrosis rate of 0-16%. Early harvesting also occurred in these ponds. It can be concluded the impossiblility of recovery of shrimp from HNS. Ponds must be harvested when detecting of necrosis signs.
 
Nguồn tin: Lê Hồng Phước, Lê Hữu Tài, Nguyễn Văn Hảo. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Thủy sản Toàn quốc lần thứ IV (ngày 16/12/2011).

2/11/13

Sự phát triển gần đây trong công nghệ Biofloc, một hệ thống an toàn sinh học cải thiện kinh tế, và phát triển bền vững

Bài đầy đủ PDF
Tóm tắt

Công nghệ biofloc kết hợp hệ thống nuôi tôm an toàn sinh học có thể làm cho hoạt động nuôi tôm bền vững và hiệu quả kinh tế hơn. Sản xuất biofloc đã được tối ưu, ao lót và ao chứa, mật độ thả nuôi cao là cần thiết. Quạt nước giữ cho hàm lượng oy hòa tan cao. Một yếu tố quan trọng là nước cần được lọc, xử lý và lưu giữ trước khi cho vào bể nuôi với tôm sạch bệnh đặc trưng (SPF). Khi ao được thả nuôi, nhân tố chính để kiểm soát là lượng biofloc trong ao.

Công nghệ Biofloc đã trở nên phổ biến trong nuôi tôm thẻ chân trắng trắng, Litopenaeus vannamei. Các biofloc cơ bảnđược phát triển bởi giáo sư Yoram Avnimelech tại Israel và bước đầu thực hiện nuôi tôm công nghiệp tại Belize bởi Robins McIntosh. Nó cũng đã được áp dụng thành công tại trang trại nuôi tôm ở Indonesia và Malaysia.

Sự kết hợp của hai công nghệ, thu hoạch một phần và biofloc, đã được nghiên cứu ở miền bắc Sumatra, Indonesia. Hệ thống cũng được kết hợp thành công vớihệ thống nuôi an toàn sinh học. Kết hợp sau này có thể làm cho hệ thống bền vững và hiệu quả kinh tế hơn.

Sự tiến bộ của trang trại

Nuôi tôm bền vững, an toàn sinh học là một trong những yếu tố quan trọng. Trang trại nuôi an toàn sinh học bắt đầu với việc thiết kế và xây dựng trang trại.

Trong thời gian cuối những năm 1980, hầu hết các trang trại nuôi tôm ở châu Á được thiết kế với dòng chảy thông qua các hệ thống nước. Trang trại nuôi tôm Dipasena ở Lampung, Indonesia, là trang trại có những ao thiết kế với các kênh cấp và xả ở đối diện hai bên. Hệ thống ổn định cho đến khi có sự bùng phát của vi khuẩn trong những năm 1990. Ao chứa nước đã được thêm vào để quản lý và kiểm soát những vấn đề vi khuẩn.

C.P. Indonesia đã thiết kế một trang trại nuôi tôm lớn với hệ thống tuần hoàn, ao chứa, ao lắng để xử lý vi khuẩn. Tuy nhiên, trong thời gian giữa năm 1990, các vấn đề về virut đã phát triển, đặc biệt virut đốm trắng. Một lần nữa, trang trại cần phải thiết kế lại để xử lý nước trước khi cấp vào ao nuôi.

Một thiết kế mô-đun gần đây được sử dụng bởi Blue Archipelago Berhad tại Malaysia bao gồm hai mô đun của bốn ao hồ chứa, khoảng 20% diện tích ao nuôi. Chỉ có một điểm khởi đầu cho nguồn nước ban đầu, trong đó nguồn nước ban đầu đi qua bốn ao chứa trước khi đến kênh nước của mô đun chính. Từ Kênh nước chính, nguồn nước đã được xử lý và được cấp vào ao nuôi.

Hệ thống Biofloc

Để nuôi tôm công nghiệp mật độ cao, bền vững và năng suất cao, ao lót bạc hoặc ao bê tông đã được sử dụng. Mật độ tôm thả nuôi cao khoảng 130-150 pl/m2 và tỷ lệ sục khí cao 28-32 hp/ha cũng rất cần thiết. Hệ thống quạt nước trong ao cũng giữ cho hàm lượng oxy trong ao cao và làm cho vật chất thải rắn tập trung ở giữa ao. Các vật chất thải có thể được siphon định kỳ khi cần thiết.

Bioflocs là một hỗn hợp của vi khuẩn, tảo và động vật nguyên sinh cùng với các vật chất hữu cơ mảnh vụn và vật chất vô. Các thiết bị sục khí cho các bioflocs lơ lửng trong nước ao đó là yêu cầu chính cho tiềm năng phát triển tối đa của vi khuẩn trong ao nuôi tôm. Các biofloc lơ lửng cũng dễ dàng làm thức ăn cho tôm. Thức ăn mãnh và mật đường được sử dụng để duy tỷ lệ C : N trên 15. Thêm vào đó một số loại hóa chất như dolomit và vôi, cao lanh cũng đượ sử dụng trong việc chuẩn bị nước ao và trong quá trình hoạt động. Cao lanh được sử dụng khoảng 50-100 kg/ha một lần hoặc 2 lần/tuần.

Vận hành và kiểm soát

Chỉ có nước đã xử lý mới được sử dụng. Nói chung, nước cấp vào phải cho qua lưới lọc 250μ để ngăn chặn ấu trùng động vật giáp xác (đặc biệt là cua) vào vào bể chứa và ao nuôi. Nước được xử lý bằng crustacides để loại trừ bất kỳ động vật giáp xác và trứng của nó còn lại trong ao. Trong thời gian này, nước sẽ được giữ ít nhất 74 giờ trong các bể chứa hoặc ao nuôi. Quá trình lưu giữ này sẽ hạn chế được này các virus trong nước.

Yếu tố quan trọng nhất trong quá trình nuôi là phải đảm bảo nước được lọc qua túi vải, xử lý hóa chất và quá trình lưu giữ được sử dụng một cách hiệu quả trước khi thả tôm vào ao. Chỉ nên thả nuôi tôm sạch bệnh đặc trưng (SPF).

Một khi ao được thả tôm , một yếu tố quan trọng để kiểm soát là thể tích biofloc. Sử dụng bể hình phiễu để đánh giá, thể tích biofloc cần phải được duy trì dưới 15 ml/L. Ít nhất hai mẫu cần phải được thực hiện đồng thời từ hai địa điểm dưới nước mặt. Nước màu xanh lá cây hoặc màu nâu là chấp nhận được, nhưng nước đen cho thấy điều kiện môi trường nước xấu.

Thức ăn mãnh và mật đường bổ sung nguồn carbon như cần thiết. Nói chung, thức ăn mãnh cung cấp từ 15 – 20 % tổng lượng thức ăn sử dụng trong suốt quá trình vận hành. Mật đường có thể bổ sung 2 – 3 lần/tuần khoảng 15 – 20 kg/ha/ao. Oxy hòa tan cần theo dõi thường xuyên có thể duy trì mức cao hơn 4 mg/L. Đặc biệt trong hệ thống bifloc, sục khí cần phải theo dõi để sữa chữa và thay thế khi cần thiết.

Hiệu suất nuôi

So sánh hiệu suất với hiệu suất nuôi dự kiến của hệ thống biofloc với hệ thống nuôi tự dưỡng truyền thống cho thấy trong Bảng 1. Tôm phát triển nhanh hơn và sản lượng cao trong hệ thống biofloc. Hệ số chuyển đổi thức ăn tốt hơn và chi phí thức ăn cũng thấp hơn hệ thống nuôi truyền thống.

Bảng 1. So sánh hệ thống sản xuất biofloc và autotrophic
10639802673_a2b6d0b43c_o.jpg 

Nước ít thay hơn với công nghệ biofloc, và hệ thống ao nuôi ổn định hơn trong hệ thống nuôi truyền thống tự dưỡng.

Các ứng dụng khác

Ngoài nuôi ca và nuôi tôm thâm canh, công nghệ cũng được ứng dụng trong thống nướ chảy siêu thâm canh để sản xuất 9 kg tôm/m3. Sử dụng hệ thống nước chảy phải có hệ thống ương, nuôi, bể vận hành tôm bố mẹ, cũng như lựa chọn dòng họ.

Hiện nay, các nghiên cứu của một số trường đại học lớn và các công ty tư nhân đang sử dụng biofloc như một nguồn protein đơn cho thức ăn thủy sản. Theo một số tác giả, protein thô của biofloc chứa khoảng 35.0 - 50.0%, và chất béo thô khoảng 0,6 - 12,0%. Biofloc có thể thiếu arginine, lysine và methionine. Hàm lượng tro của nó giữa 21 và 32%.

Quan điểm

Trong bất kỳ doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản, khi tiết kiệm từ việc sử dụng hiệu quả thức ăn, thời gian, năng lượng, hệ thống ổn định và bền vững thì có thể cải thiện được lợi nhuận. Công nghệ biofloc dường như có các đặc tính này.

Với các vấn đề virus và chi phí gia tăng năng, công nghệ biofloc với hệ thống an toàn sinh học có thể trả lời cho hiệu quả nhiều hơn, bền vững và lợi nhuận hơn trong nuôi trồng thủy sản.

Phó Văn Nghị, www.aquanetviet.org
Source: Taw N., 2012. Recent developments in biofloc technology biosecure systems improve economics, sustainability. Global Aquaculture advocate.